Bệnh Cường giáp có thể gây biến chứng nặng ở Tim

Cường giáp là bệnh nội tiết khá phổ biến ở Việt Nam, trong đó Basedow là bệnh cường giáp thường gặp nhất. Bệnh có đặc trưng là gầy sút nhiều, tim đập nhanh, run tay, cổ to và một số bệnh nhân (BN) có mắt lồi. Tuy có nhiều triệu chứng nhưng do diễn biến tăng dần nên nhiều trường hợp được chẩn đoán muộn. Nếu không được điều trị kịp thời và dứt điểm, BN cường giáp có thể bị nhiều biến chứng mà phổ biến và nguy hiểm nhất là các biến chứng về tim mạch.

1. Các biến chứng tim mạch của bệnh cường giáp

1.1. Các rối loạn nhịp tim:

Tăng hormon giáp làm nhịp tim nhanh thường xuyên kể cả lúc nghỉ, có thể lên tới 110-120 lần/phút. Nhịp tim nhanh được coi là dấu hiệu trung thành nhất của bệnh cường giáp nhưng trong phần lớn các trường hợp, nhịp tim vẫn đều (gọi là nhịp nhanh xoang). Có khoảng 10-15% BN cường giáp có biến chứng loạn nhịp, thường gặp nhất là rung nhĩ (tâm nhĩ không đập theo nhịp bình thường nữa mà đập rất nhanh và không đều, từ 300-600 lần/phút). Khi đó các BN thường có biểu hiện hồi hộp, đánh trống ngực nhiều, một số bị đau ngực, thậm chí có BN bị ngất. Nghe tim thấy tâm thất đập không đều nhưng ở tần số rất nhanh, có thể lên tới 170-180 lần/phút.

Khi bị loạn nhịp, tim bóp lúc mạnh lúc yếu, hậu quả là máu trong buồng tim không được tống hết ra ngoài sẽ dần tạo thành cục máu đông. Cục máu đông này rất dễ bị trôi lên não gây ra tai biến mạch não. Theo nhiều nghiên cứu, các BN bị rung nhĩ kéo dài có nguy cơ bị tai biến mạch não cao gấp 5-7 lần so với người bình thường và cứ 6 BN bị tai biến mạch não thì có 1 BN có nguyên nhân là do loạn nhịp tim.

1.2. Tăng huyết áp:

Các BN cường giáp thường có tăng huyết áp, chủ yếu là huyết áp tối đa còn huyết áp tối thiểu vẫn bình thường, khoảng cách huyết áp tăng lên. Tuy mức tăng huyết áp không nhiều và hiếm khi cần phải điều trị nhưng nếu kéo dài thì nó cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tim, góp phần gây suy tim.

1.3. Hội chứng suy tim:

Tăng hormon giáp làm tim co bóp mạnh và nhanh, hoạt động này cần các tế bào cơ tim khỏe mạnh và được nuôi dưỡng cung cấp đủ oxy. Nếu tình trạng này kéo dài hoặc khi dự trữ cơ tim không đảm bảo cho tim đáp ứng được nhu cầu tăng cung lượng tim xảy ra trong cường giáp thì sẽ dẫn đến suy tim, lúc đầu là suy tim trái nhưng về sau thường là suy tim toàn bộ. Suy tim do cường giáp có đặc điểm khác biệt với phần lớn các trường hợp suy tim khác là lượng máu do tim bơm ra lại cao hơn bình thường (gọi là suy tim tăng cung lượng), tuy nhiên sự khác biệt này chỉ ở giai đoạn đầu, còn nếu kéo dài thì cuối cùng cung lượng tim cũng giảm và biểu hiện lâm sàng của suy tim giai đoạn muộn trong cường giáp không khác với suy tim do các nguyên nhân khác, đó là khó thở, phù, gan to, đái ít, tím môi...

1.4. Hội chứng suy vành:

Tim đập nhanh và mạnh kéo dài sẽ làm các tế bào cơ tim phì đại, nhất là thất trái, khi đó nhu cầu oxy của cơ tim sẽ tăng lên. Tuy nhiên do máu đi vào mạch vành (là các mạch máu nuôi dưỡng cơ tim) trong thời kỳ tâm trương nên khi nhịp tim nhanh do cường giáp sẽ làm rút ngắn thời gian tâm trương, máu vào mạch vành bị giảm đi, hậu quả là BN bị thiếu máu cơ tim. Biểu hiện của thiếu máu cơ tim là đau ngực sau xương ức từ các mức độ nhẹ đến đau dữ dội, đau cả khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức. Điều đặc biệt là các cơn đau ngực ở BN cường giáp rất hiếm khi chuyển thành nhồi máu cơ tim và khi điều trị khỏi cường giáp thì cũng hết các cơn đau ngực.

2. Điều trị các biến chứng tim mạch ở BN cường giáp

     Phương pháp điều trị cần được áp dụng đầu tiên do có hiệu quả cao nhất chính là điều trị khỏi cường giáp. Ví dụ như các BN cường giáp có biến chứng rung nhĩ thì trong vòng 4 tháng sau khi hết cường giáp, có tới 2/3 số BN này tự trở về nhịp đều bình thường. Khi hết cường giáp, nhịp tim giảm xuống, tim co bóp ít và nhẹ hơn sẽ góp phần làm giảm huyết áp, giảm đau ngực do thiếu máu cơ tim và giảm cả suy tim. Vì thế cần điều trị đạt bình giáp sớm và duy trì bình giáp bền vững bằng 1 trong 3 phương pháp là dùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, mổ cắt tuyến giáp hoặc điều trị iode phóng xạ (I131).

    Tuy nhiên mức độ làm giảm các biến chứng nhiều hay ít tùy thuộc vào thời gian BN bị cường giáp và các biến chứng tim mạch này nặng hay nhẹ. Các BN được điều trị cường giáp bằng thuốc cần nhớ là sau khi đã đạt bình giáp, họ vẫn cần điều trị duy trì trong thời gian dài, có thể tới 18 tháng mới khỏi được bệnh.

    Ngoài điều trị cường giáp thì tùy theo loại biến chứng mà có phương pháp điều trị hỗ trợ khác nhau. Các thuốc thường dùng và có tác dụng tốt là thuốc chẹn beta giao cảm (như propranolol, metoprolol, atenolol..) làm giảm huyết áp, giảm nhịp tim (trong rung nhĩ) và gián tiếp làm giảm đau ngực. Thuốc điều trị suy tim là digoxin và lợi tiểu... Ngoài ra có thể sử dụng các thuốc điều trị tăng huyết áp, suy tim, suy vành như thông thường. Vai trò của các thuốc điều trị chuyên biệt này là rất lớn trong giai đoạn đầu khi BN còn cường giáp nặng, các phương pháp điều trị cường giáp chưa có tác dụng.

     Điều lưu ý quan trọng là các biến chứng tim mạch của bệnh cường giáp thường đáp ứng tốt với điều trị, tuy nhiên nếu để cường giáp kéo dài hoặc cường giáp tái phát thì biến chứng sẽ nặng lên nhiều, ít hoặc không đáp ứng với điều trị, khi đó nguy cơ bị suy tim nặng hoặc tử vong sẽ tăng cao.

    Tuy nhiên trong thực tế có khá nhiều người sau một thời gian điều trị thấy người khỏe, các triệu chứng tim mạch đỡ nhiều hoặc khi được kết luận là đã đạt bình giáp thì bắt đầu điều trị không đều hoặc bỏ hẳn điều trị, cho đến khi bệnh tái phát hoặc nặng lên mới điều trị lại thì đã muộn. Vì thế các BN cần được điều trị và theo dõi thường xuyên bởi các bác sĩ nội tiết và có thể cả bác sĩ tim mạch để đảm bảo được điều trị triệt để.

Sưu tầm

Mời xem thêm: 

Bị basedow cần ăn uống thế nào?

10 DẤU HIỆU CẢNH BÁO SỚM BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

LỊCH KHÁM CÁC CHUYÊN KHOA - LỊCH KHÁM CỦA GIÁO SƯ, TIẾN SĨ

 

 

tin tức nổi bật