Từ lâu, bệnh thận và tăng huyết áp là những yếu tố nguy cơ, đôi khi gây chết người cho cả mẹ và thai nhi.
Ngày nay, phần lớn những phụ nữ có bệnh thận lại có thai, có thể đẻ thường vì y học hiểu biết kỹ hơn các thay đổi sinh lý khi thai nghén và có các phương pháp phòng ngừa, điều trị hữu hiệu các biến chứng thai sản.
1. NHỮNG BIỂU HIỆN BỆNH LÝ THẬN VÀ TĂNG HUYẾT ÁP, HẬU QUẢ CỦA THAY ĐỔI SINH LÝ THẬN KHI CÓ THAI
1.1. Nhiễm khuẩn tiết niệu:
Khi có thai cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn tiết niệu do trương lực giảm và giãn đường bài niệu, gặp ở 5-10% phụ nữ có thai. Có nguy cơ dẫn đến các tai biến sản khoa: đẻ non, thai chết lưu, thai bé … do nhiễm khuẩn máu.
* Nhiễm khuẩn tiết niệu thấp:
* Viêm thận bể thận cấp tính:
1.2. Tăng huyết áp khi có thai:
Ở phụ nữ bình thường, lúc thai nghén huyết áp trung bình giảm sớm, huyết áp tâm trương giảm khoảng 10mmHg, sự giảm này ổn định từ tháng đầu của thai nghén. Gần ngày sinh, huyết áp trở lại bình thường như trước khi có thai.
* Trong tăng huyết áp và thai nghén, người ta chia ra làm 4 nhóm:
1.3. Nhiễm độc thai nghén:
Người ta phân biệt tăng huyết áp xuất hiện khi có thai không liên quan với các nguyên nhân khác, gọi là tăng huyết áp thai nghén khác với tăng huyết áp có trước (biết hay không biết) và nặng lên khi có thai.
Nhiễm độc thai nghén (NĐTN) hay tiền sản giật là sự phối hợp giữa tăng huyết áp, phù và protein niệu ở 3 tháng cuối của thai kỳ.
Sản giật, đặc hiệu bởi những cơn co giật toàn thân gây nhiều biến chứng trầm trọng làm tử vong cho mẹ và thai nhi.
* Chẩn đoán xác định:
Ở phụ nữ trẻ có thai lần đầu, không có tiền sử tăng huyết áp và không bị bệnh thận, ở 3 tháng cuối kỳ có:
* Chẩn đoán phân biệt:
Phù sinh lý ở phụ nữ có thai: xuất hiện tăng dần và chậm. Phù chiếm ưu thế ở chân, mặt và tay. Huyết áp bình thường, protein niệu âm tính.
* Tiến triển:
Có biến chứng cho mẹ và thai nhi:
* Phòng bệnh:
Khám thai định kỳ với: Theo dõi cân nặng, huyết áp, protein niệu của mẹ và sự phát triển của thai nhi: đo chiều cao tử cung, siêu âm.
2. NHỮNG BỆNH THẬN CÓ TRƯỚC NẶNG LÊN KHI CÓ THAI
Khi bị các bệnh trên, cần tư vấn xem người bệnh nên có thai hay không. Khi đã có thai, cần xem xét thận trọng để duy trì thai nghén hay không. Sự hợp tác giữa thầy thuốc nội khoa và sản khoa rất cần thiết trong xử lý tiếp tục hay ngừng có thai ở bệnh lý này.
3. NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ CÓ THAI TRONG MỘT SỐ BỆNH THẬN
3.1. Trong viêm cầu thận cấp tính:
Có thể có thai bình thường nhưng cần theo dõi chặt chẽ về cân nặng, huyết áp và protein niệu, đặc biệt là những tháng cuối của thời kỳ thai nghén.
3.2. Trong hội chứng thận hư nguyên phát:
Dựa vào diễn biến lâm sàng, sự đáp ứng với điều trị và mức độ suy thận.
3.3. Trong bệnh Lupus ban đỏ hệ thống:
Đa số bệnh nhân Lupus là phụ nữ trẻ, đang ở giai đoạn sinh đẻ. Có thai có thể làm cho bệnh tiến triển nặng lên hoặc người mẹ có nguy cơ tai biến chửa đẻ. Có nhiều yếu tố liên quan với người bị bệnh Lupus có thai. Cần tư vấn của bác sĩ chuyên khoa.
3.4. Trong suy thận mạn tính:
Dù suy thận mạn tính do nguyên nhân gì, viêm cầu thận hay thận đa nang hay sỏi thận, việc có thai ảnh hưởng rất nhiều đến diễn biến của bệnh và người mẹ dễ bị nhiều tai biến.
Các nhà thận học khuyên có thể có thai khi suy thận còn ở giai đoạn I, giai đoạn II nhưng việc theo dõi và điều trị phải được theo dõi và quan tâm chặt chẽ.
Phải không chế được huyết áp, đề phòng được viêm nhiễm. Khi đã bị suy thận cuối giai đoạn II trở đi không nên có thai.
Theo Bệnh học Nội khoa