Bệnh nang thận

Hiện nay, kỹ thuật siêu âm phát triển rộng rãi nên ngày càng có nhiều người tầm soát sức khỏe bằng kỹ thuật này. Nang thận là một trong những bệnh được phát hiện qua siêu âm.

1. Nguyên nhân mắc bệnh

Thận được cấu tạo bởi khoảng 1 triệu đơn vị thận để bài tiết nước tiểu. Mỗi đơn vị thận đều có nhiệm vụ lọc, tái hấp thu và bài tiết nước tiểu vào một hồ chứa chung là bể thận.

Từ bể thận nước tiểu sẽ chảy theo niệu quản xuống bàng quang để khi buồn đi tiểu, nước tiểu được bài xuất ra ngoài. Nếu vì một lí do nào đó một đơn vị thận bị tắc (ví dụ như: viêm, bị sỏi, bị xơ, bẩm sinh…) thì nước tiểu bị ứ lại hình thành nên một túi chứa nước gọi là “nang thận”. Tuy nhiên, lượng nước không được đưa ra ngoài sẽ tái hấp thu lại một phần, chính vì thế mà thời gian nang thận gia tăng kích thước là rất lâu.

2. Các loại nang thận

Có ba loại nang thận: nang thận đơn độc, thận nhiều nang (từ hai nang trở lên) và thận đa nang.

2.1. Nang thận đơn độc: là bệnh thường gặp, chiếm tỉ lệ 1/3 bệnh nhân trên 50 tuổi, nguyên nhân như trình bày ở trên. Loại nang thận đơn độc không biến chứng, triệu chứng rất “nghèo nàn”. Những nang nhỏ thường không gây biểu hiện gì. Nang lớn hơn có thể gây đau ê ẩm bên hông lưng có chứa nang thận.

Nang thận đơn độc được phát hiện dễ dàng qua siêu âm hoặc CT-Scan, đặc biệt phương pháp CT-Scan giúp tầm soát chính xác cao. Nếu nang nhỏ (dưới 6cm), không biến chứng thì không cần can thiệp. Nang thận có kích thước lớn (hơn 6cm) nên mổ vì nó gây đè ép chủ mô thận, dần dần ảnh hưởng đến chức năng thận.

Đối với những nang nhỏ hơn nhưng gây biến chứng nhiễm trùng nang, xuất huyết trong nang gây đau nhiều mà qua điều trị nội khoa không đỡ, tái phát nhiều lần nên xét đến can thiệp ngoại khoa. 

2.2. Thận nhiều nang: tương tự như nang thận đơn độc nhưng do tắc nghẽn nhiều đơn vị thận.

Điều trị nang thận đơn độc và thận nhiều nang có nhiều phương pháp như:

  • Chọc hút nang thận và bơm chất làm xơ hóa dưới hướng dẫn của siêu âm. Phương pháp này có tỷ lệ tái phát cao (trên 70% sau 3 tháng).

  • Mổ hở cắt chóp nang: Phương pháp này gây đau nhiều, thời gian nằm viện dài, có sẹo mổ, bệnh nhân hồi phục sức khỏe chậm.

  • Phẫu thuật nội soi cắt chóp nang: Đây là loại phẫu thuật có nhiều ưu điểm: số ngày nằm viện ngắn, vết mổ nhỏ, ít đau, người bệnh hồi phục sức khỏe nhanh. Hiện nay phương pháp này được xem là phẫu thuật an toàn và hiệu quả nhất. 

2.3. Thận đa nang: thường do di truyền, cần được theo dõi mỗi 6 tháng siêu âm một lần. Nếu chúng gây đau, nhiễm trùng thì phải có sự can thiệp của các bác sĩ chuyên khoa niệu. Nang lớn hơn 6cm thì phải mổ vì nó sẽ đè ép các đơn vị thận bên cạnh làm cho những đơn vị này không “làm việc” được.

Biến chứng của nang thận có thể dẫn đến nang nhiễm trùng, tụ mủ; sỏi trong nang; nang hóa ác; nang quá to gây chèn ép hay vỡ nang.

Về dự phòng: không có dự phòng đặc hiệu cho bệnh nang thận. Do đó, khi phát hiện bị nang thận, người bệnh không nên quá lo lắng, vì tùy theo kết luận của bác sĩ siêu âm là biết được nang thận loại nào. Nếu nang đơn độc, kích thước nhỏ, không đáng lo, trung bình khoảng 6 tháng đi kiểm tra lại một lần, uống nhiều nước (khoảng 2 lít/ngày), nghỉ ngơi hợp lý, kiêng rượu bia, thuốc lá.

ThS.BS. Nguyễn Thị Bích Ngọc

tin tức nổi bật