Đái dầm phổ biến hơn người ta tưởng rất nhiều. Hiện tượng này hay gặp ở trẻ nhỏ, hiếm gặp hơn ở tuổi học sinh. Theo Viện Hàn lâm Nhi khoa Mỹ, khoảng 20% trẻ 5 tuổi và 3% trẻ 12 tuổi có những đợt đái dầm. Tại Mỹ, có khoảng 5-7 triệu trẻ trên 6 tuổi mắc chứng đái dầm.
Theo bác sĩ Mark Zaontz, Trưởng khoa Tiết niệu Nhi tại một bệnh viện khu vực ở New Jersey (Mỹ), yếu tố di truyền đóng vai trò rất quan trọng – đái dầm liên quan nhiều tới nhiễm sắc thể số 13.
Giáo sư Alan Greene, Đại học Tổng hợp Stanford (Mỹ), nói: “Phần lớn phụ huynh coi chứng đái dầm là bất thường về hành vi hay tâm lý, và họ cố gắng giải quyết vấn đề theo hướng này. Tuy nhiên, đái dầm chỉ được coi là mang tính hành vi nếu trước đó, trẻ từng không “tè” ra giường trong ít nhất 6 tháng”.
Theo ông Green, đái dầm là sự kết hợp của hai yếu tố quan trọng ở trẻ:
- Nhu cầu đi tiểu về đêm cao hơn bình thường.
- Hệ thống tín hiệu bên trong (giúp đánh thức ta dậy ban đêm khi có nhu cầu tiểu tiện) chưa hoàn thiện.
1. * Một số nguyên nhân gây chứng đái dầm:
1.1- Nguyên nhân do sinh lý: nguyên nhân chủ yếu gây nên chứng đái dầm .Trong cơ thể có hai cơ chế sinh lý giúp ngăn ngừa chứng đái dầm.
Khi các cơ chế sinh lý trên chưa được phát triển hoàn chỉnh sẽ gây ra chứng đái dầm ở trẻ em.
1.2- Nguyên nhân về thể chất:
Do có những dị tật bẩm sinh của bàng quang; khả năng phát triển bàng quang không tốt, hay bàng quang nhỏ quá; không kiểm soát được cơ của ống dẫn tiểu; nhiễm trùng đường tiểu; không kiểm soát được cơ bàng quang hoặc do chậm phát triển hệ thống thần kinh; động kinh vào ban đêm…
Khi bàng quang đã đầy nước tiểu mà bệnh nhân vẫn chưa muốn thức giấc, sẽ dẫn đến đái dầm. Các bậc phụ huynh thường than phiền rằng con cái ngủ say quá nên đái dầm. Nhưng sự thực đái dầm không liên quan tới giấc ngủ. Nếu chúng thức giấc kịp thời để đi tiểu thì sẽ đỡ bị đái dầm hơn.
1.3- Nguyên nhân về tâm lý, cảm xúc:
1.4- Nguyên nhân do bệnh lý:
2.* Các phương pháp phòng chống chứng đái dầm ở trẻ em:
Thực tế, các bậc cha mẹ nếu thấy con mình có những biểu hiện của chứng này thì nên đưa trẻ đi khám về thân thể trước xem có phải vì nguyên nhân về mặt sinh lý không. Rồi sau đó mới đưa đến gặp bác sĩ tâm lý để có phương pháp trị liệu.
Tùy theo nguyên nhân gây ra chứng đái dầm mà chúng ta có các phương pháp phòng chống và điều trị thích hợp.
- Với chứng đái dầm do nguyên nhân sinh lý: khi trẻ em lớn lên đến một giai đoạn mà hệ thần kinh kiểm soát bàng quang đã phát triển hoàn chỉnh thì chứng đái dầm sẽ hết.
- Với chứng đái dầm do nguyên nhân tâm lý: cần tôn trọng trẻ em, tránh la mắng, trừng phạt, tránh gây cảm giác xấu hổ, tội lỗi nơi các em. Cha mẹ luôn khuyến khích, động viên và khen thưởng khi các em không đái dầm.
Điều quan trọng nhất vẫn là sự quan tâm của bố mẹ đối với trẻ; nên giúp đỡ trẻ qua những lúc khó khăn, đừng trừng phạt trẻ; không nên đổ lỗi cho trẻ, mà ngược lại nên giúp trẻ hiểu biết, có trách nhiệm để có thể làm được những gì cần phải tự làm.
Nếu trẻ cố gắng thức giấc, tự đi tiểu, hay đêm nào không bị đái dầm, thì nên khen ngợi. Phương pháp này có thể giúp trẻ khỏi hẳn đái dầm, tỉ lệ lên đến 25% và giúp trẻ thêm tiến bộ tự kiểm soát được đái dầm khoảng 75%
Ngoài ra có thể áp dụng một số phương pháp sau để kiểm soát chứng đái dầm ở trẻ em:
- Với chứng đái dầm do nguyên nhân bệnh lý: việc chữa trị bệnh đái tháo đường týp 1 hay bệnh nhiễm trùng đường tiểu cũng sẽ giúp kiểm soát chứng đái dầm. Áp dụng phương pháp phẫu thuật đối với các bệnh lý còn lại (cấu trúc bất thường ở đường tiểu, cột sống chẻ đôi…) mang lại hiệu quả cao trong điều trị chứng đái dầm.
Với trẻ em, việc sử dụng các loại thuốc để điều trị chứng đái dầm như: thuốc chống trầm cảm ba vòng (amitryptiline, imipramine, nortriptyline) hay thuốc thay thế hoóc-môn kháng lợi tiểu (desmopresin) do có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nên ít được sử dụng.
Cách đối phó tốt nhất với chứng đái dầm là xem nó như một tình trạng chậm phát triển hơn là một căn bệnh, và không dồn sự chú ý quá nhiều vào trẻ.
Sưu tầm