Vì nghĩ thuốc đông y “hiền khô” nên nhiều người đã dùng vô tư để chữa bệnh. Tuy nhiên nhiều vị thuốc đông y có độc tính, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng người dùng.
Hiện nay trong người dân có quan niệm phổ biến cho rằng thuốc đông y (bao gồm thuốc bắc và thuốc y học cổ truyền) không độc hoặc ít độc hơn thuốc tây y. Quan niệm này có lý do của nó, phần lớn thuốc tây y đi từ con đường tổng hợp của hóa học, tức những hóa chất ít nhiều độc tính, trong khi phần lớn thuốc đông y xuất phát từ cây cỏ là sinh chất thiên nhiên dễ hòa hợp với sự sống của con người hơn các chất nhân tạo.
Nhưng từ quan niệm thuốc đông y ít độc để đi đến chỗ lạm dụng, sử dụng bừa bãi, cứ uống nhiều thuốc đông y vào “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc” là điều hết sức nguy hại. Chưa kể người ta có thể dùng nhầm thực vật rất độc để làm thuốc, như dùng nhầm cây lá ngón và nhiều người đã tử vong rất thương tâm.
Về khoáng chất có một số vị thuốc đông y rất độc, phải xem đó là độc chất. Đó là thần sa, chu sa (chứa thủy ngân), thạch tín, khinh phấn... Cách đây gần hai chục năm, một đề tài nghiên cứu của Trung tâm Cấp cứu TP.HCM (nay là Bệnh viện Sài Gòn) cho thấy đã có hàng trăm ca ngộ độc thuốc đông y xảy ra trong một thời gian ngắn. Nội dung đề tài có báo cáo một bài thuốc dân gian gồm có “thần sa tán nhỏ cho vào tim heo hấp chín rồi dùng” đã gây ngộ độc. Chính bài thuốc này được truyền miệng và tiếp thu một cách không hiểu biết, tưởng là thuốc bổ có thể sử dụng lâu dài đã đưa đến cái chết thương tâm cho một nạn nhân được đưa đến Trung tâm Cấp cứu, không giải độc kịp.
Về thực vật có độc tính có thể kể:
- Á phiện là nhựa lấy từ trái của cây thuốc phiện (Papaver somniferum L., họ Papaveraceae) dùng để chữa ho, giảm đau, chữa đau bụng, tả lỵ. Nếu dùng quá liều sẽ nguy hiểm cho tính mạng do sự ức chế trung tâm hô hấp ở hành tủy. Cần chú ý trước đây có một số thuốc y học cổ truyền (như Lục thần thủy) hoặc thuốc tây y (như élixir parégorique) trị tiêu chảy có chứa vị thuốc này.
- Phụ tử là vị thuốc lấy từ rễ củ cây ô đầu VN (Aconitum fortunei Hemsl., họ Ranuculaceae) hay của nhiều loại Aconitum khác, trong đông y được dùng làm thuốc hồi dương, khử phong hàn, chữa một số bệnh trụy tim mạch, ra nhiều mồ hôi, tay chân lạnh giá. Trong vị thuốc này có chứa aconitin là một chất cực độc: chỉ cần 2-3mg aconitin có thể gây chết người. Một số thuốc đông y như Trấn kinh hoàn, Bát vị hoàn có chứa vị thuốc này.
- Mã tiền là vị thuốc bào chế từ hạt cây mã tiền (Strychnos nux vomica L., họ Loganiaceae). Mã tiền sử dụng trong đông y cũng giống như strychnin được sử dụng trong tây y. Đó là vị thuốc kích thích tiêu hóa, chữa nhức mỏi tay chân, chữa đau dây thần kinh và thiếu máu. Độc tính của mã tiền là do chất strychnin. Nếu dùng quá liều sẽ gây cơn co giật kiểu uốn ván và nạn nhân chết vì ngạt thở do cơ hô hấp bị co giật kéo dài.
- Cà độc dược là vị thuốc lấy từ lá cây cà độc dược (Datura metel L., họ Solanaceae). Dùng cà độc dược trong đông y giống như dùng atropin, hyoscin, scopolamin trong tây y. Được dùng để chữa hen suyễn, giảm đau, chống co thắt trong bệnh loét dạ dày và ruột, chữa chóng mặt, nôn mửa khi đi máy bay, tàu xe. Có thể gây ngộ độc nếu dùng quá liều do chất atropin làm tê liệt hệ đối giao cảm: giãn đồng tử, mạch nhanh, giảm tiết dịch, tê liệt. Nạn nhân chết do hôn mê.
Tóm lại, thuốc đông y cũng có những độc chất như trong thuốc tây y. Vì vậy phải thật cẩn trọng khi sử dụng, không nên nghe lời truyền miệng, đồn đại về một toa thuốc, vị thuốc nào đó rồi tự tiện sử dụng trong khi chưa biết trong toa ấy có chứa độc chất hay không. Cũng đừng quá tin vào cái nhãn hiệu gia truyền mà giao phó sức khỏe cho những người không được đào tạo chuyên môn hay hành nghề không theo sự quản lý của ngành y tế.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức